• Lịch khai giảng Tháng 9 và Tháng 10 năm 2025
    » Lớp tiếng Trung HSK 123 và HSKK sơ cấp khai giảng ngày 8/9/2025, lịch học Thứ 2-4-6, thời gian học 18h-19h30 (1 chỗ)
    » Lớp tiếng Trung HSK 123 và HSKK sơ cấp khai giảng ngày 15/9/2025, lịch học Thứ 2-4-6, thời gian học 18h-19h30 (1 chỗ)
    » Lớp tiếng Trung HSK 123 và HSKK sơ cấp khai giảng ngày 22/9/2025, lịch học Thứ 2-4-6, thời gian học 18h-19h30 (1 chỗ)
    » Lớp tiếng Trung HSK 123 và HSKK sơ cấp khai giảng ngày 29/9/2025, lịch học Thứ 2-4-6, thời gian học 18h-19h30 (Còn 1 chỗ)
    » Lớp tiếng Trung cơ bản khai giảng ngày 7/10/2025, lịch học Thứ 3-5-7, thời gian học 18h-19h30 (Còn 1 chỗ)
    » Lớp tiếng Trung cơ bản khai giảng ngày 14/10/2025, lịch học Thứ 3-5-7, thời gian học 18h-19h30 (Còn 1 chỗ)
    » Lớp tiếng Trung cơ bản khai giảng ngày 21/10/2025, lịch học Thứ 3-5-7, thời gian học 18h-19h30 (Còn 1 chỗ)
    » Lớp tiếng Trung cơ bản khai giảng ngày 28/10/2025, lịch học Thứ 3-5-7, thời gian học 18h-19h30 (Còn 1 chỗ)
    » Trung tâm tiếng Trung CHINEMASTER
    Video bài giảng Thầy Vũ livestream đào tạo trực tuyến

Luyện dịch tiếng Trung theo chủ đề bài tập 1

Bài tập luyện dịch tiếng Trung theo chủ đề Bốn Mùa Bắc Kinh


Luyện dịch tiếng Trung theo chủ đề Bốn Mùa Bắc Kinh là bài tập luyện kỹ năng biên phiên dịch tiếng Trung Quốc mỗi ngày.

北京的四季
Běijīng de sìjì
Bốn Mùa Bắc Kinh

永远不能忘记的是北京,因为我在那里住得太久了,仿佛树生了根一样。
Yǒngyuǎn bùnéng wàngjì de shì Běijīng, yīnwèi wǒ zài nàlǐ zhù de tài jiǔle, fǎngfú shù shēngle gēn yíyàng.
Không bao giờ có thể quên được Bắc Kinh, bởi vì tôi đã sống ở đó quá lâu, giống như cây cối đã cắm rễ vậy.

从童年到少女又到妇人,一半的人生都是在那里度过的。
Cóng tóngnián dào shàonǚ yòu dào fùrén, yíbàn de rénshēng dōu shì zài nàlǐ dùguò de.
Từ thời thơ ấu đến khi trở thành thiếu nữ, rồi đến khi trở thành một người phụ nữ, một nửa cuộc đời tôi đã trôi qua ở đó.

我是多么熟悉那里的每个季节啊!
Wǒ shì duōme shúxī nàlǐ de měi gè jìjié a!
Tôi quen thuộc với từng mùa nơi ấy biết bao!

春天,人们纷纷来到西山,争着往山上爬,看“谁先爬上那个最高的山头”。
Chūntiān, rénmen fēnfēn láidào Xīshān, zhēngzhe wǎng shān shàng pá, kàn "shéi xiān pá shàng nàgè zuìgāo de shāntóu".
Mùa xuân, mọi người nô nức đến Tây Sơn, tranh nhau leo lên đỉnh núi, xem "ai là người đầu tiên lên đến đỉnh cao nhất".

春天先看牡丹花,接着就是芍药花,北京的春天多么美丽呀!
Chūntiān xiān kàn mǔdān huā, jiēzhe jiù shì sháoyào huā, Běijīng de chūntiān duōme měilì ya!
Mùa xuân trước tiên phải ngắm hoa mẫu đơn, sau đó là hoa thược dược, mùa xuân ở Bắc Kinh thật đẹp!

然而,美丽的花儿不怕雨,却怕风,有时一夜大风,就把花儿吹得不成样子了。
Rán'ér, měilì de huār bù pà yǔ, què pà fēng, yǒu shí yí yè dàfēng, jiù bǎ huār chuī de bù chéng yàngzi le.
Tuy nhiên, những bông hoa đẹp không sợ mưa, nhưng lại sợ gió. Đôi khi chỉ sau một đêm gió lớn, hoa đã bị thổi rụng, chẳng còn hình dạng gì nữa.

几阵犬风就送走了春天,北京的春天又是多么短暂啊!
Jǐ zhèn quǎnfēng jiù sòng zǒule chūntiān, Běijīng de chūntiān yòu shì duōme duǎnzàn a!
Chỉ vài đợt gió mạnh cũng đủ đưa mùa xuân đi xa, mùa xuân ở Bắc Kinh ngắn ngủi biết bao!

许多夏季的黄昏,喝一杯茉莉花茶,看一本心爱的书,听着蝉的叫声,享受安静。
Xǔduō xiàjì de huánghūn, hē yì bēi mòlìhuā chá, kàn yì běn xīn'ài de shū, tīngzhe chán de jiàoshēng, xiǎngshòu ānjìng.
Vào những buổi hoàng hôn mùa hè, nhâm nhi một tách trà hoa nhài, đọc một cuốn sách yêu thích, lắng nghe tiếng ve kêu, tận hưởng sự yên tĩnh.

最难忘的是夏季的暴雨,天空忽然黑下来,一阵大雨把天空和世界洗得干干净净,空气变得格外清新。
Zuì nánwàng de shì xiàjì de bàoyǔ, tiānkōng hūrán hēi xiàlái, yí zhèn dàyǔ bǎ tiānkōng hé shìjiè xǐ de gāngānjìngjìng, kōngqì biànde géwài qīngxīn.
Đặc biệt đáng nhớ là những cơn mưa rào mùa hè. Bầu trời bỗng nhiên tối sầm lại, một trận mưa lớn đổ xuống rửa sạch cả bầu trời và mặt đất, không khí trở nên trong lành hơn bao giờ hết.

我特别喜欢看雨后的红墙和绿瓦,喜欢雨后到北海公园划小船。
Wǒ tèbié xǐhuān kàn yǔhòu de hóngqiáng hé lǜwǎ, xǐhuān yǔhòu dào Běihǎi gōngyuán huá xiǎo chuán.
Tôi đặc biệt thích ngắm nhìn những bức tường đỏ và mái ngói xanh sau cơn mưa, thích sau cơn mưa đến công viên Bắc Hải để chèo thuyền.

到北海要经过文津街。文津街是北京城里我最喜爱的一条路,走过那里,就会想起历史。
Dào Běihǎi yào jīngguò Wénjīn Jiē. Wénjīn Jiē shì Běijīng chéng lǐ wǒ zuì xǐ'ài de yì tiáo lù, zǒuguò nàlǐ, jiù huì xiǎngqǐ lìshǐ.
Để đến Bắc Hải, phải đi qua phố Văn Tân. Văn Tân là con đường tôi yêu thích nhất ở Bắc Kinh, mỗi khi đi qua đó, tôi lại nhớ về lịch sử.

北京的春天很短,可是秋天却很长。从树叶变黄,到水面结冰,都属于秋季。
Běijīng de chūntiān hěn duǎn, kěshì qiūtiān què hěn cháng. Cóng shùyè biàn huáng, dào shuǐmiàn jié bīng, dōu shǔyú qiūjì.
Mùa xuân ở Bắc Kinh rất ngắn, nhưng mùa thu lại kéo dài. Từ khi lá vàng rơi cho đến khi mặt nước đóng băng, tất cả đều thuộc về mùa thu.

秋的第一个消息,就是水果上市。
Qiū de dì yī gè xiāoxī, jiù shì shuǐguǒ shàngshì.
Dấu hiệu đầu tiên của mùa thu chính là khi hoa quả bắt đầu xuất hiện trên thị trường.

就拿水果的种类来说吧,那真是太多了: 枣、葡萄、梨... 都是秋季的水果。
Jiù ná shuǐguǒ de zhǒnglèi lái shuō ba, nà zhēnshì tài duō le: zǎo, pútáo, lí... dōu shì qiūjì de shuǐguǒ.
Nói về các loại hoa quả thì thật là nhiều: táo tàu, nho, lê… đều là những loại quả đặc trưng của mùa thu.

“西来顺”门前,假如摆出那两面大招牌,一面招牌上写着“涮”,一面招牌上写着“烤”,那就是告诉人们,秋天来了。
"Xīláishùn" ménqián, jiǎrú bǎichū nà liǎng miàn dà zhāopái, yí miàn zhāopái shàng xiězhe "shuàn", yí miàn zhāopái shàng xiězhe "kǎo", nà jiù shì gàosù rénmen, qiūtiān láile.
Trước cửa tiệm "Tây Lai Thuận", nếu hai tấm biển lớn được dựng lên, một bên viết chữ "nhúng", một bên viết chữ "nướng", thì đó chính là dấu hiệu báo rằng mùa thu đã đến.

从人来人往的西单向南,一路上都能闻到烤肉香。
Cóng rén lái rén wǎng de Xīdān xiàng nán, yílù shàng dōu néng wén dào kǎoròu xiāng.
Từ khu Tây Đơn tấp nập người qua lại đi về phía nam, dọc đường đều có thể ngửi thấy mùi thịt nướng thơm lừng.

从那时起,一天不知要从外地运来多少只羊,才能满足北京人的馋嘴呢!
Cóng nà shí qǐ, yì tiān bù zhī yào cóng wàidì yùn lái duōshǎo zhī yáng, cáinéng mǎnzú Běijīng rén de chánzuǐ ne!
Từ thời điểm đó, mỗi ngày không biết có bao nhiêu con cừu được vận chuyển từ các vùng khác đến mới đủ để thỏa mãn khẩu vị của người dân Bắc Kinh!

每年的秋天,都要有几次郊游。
Měi nián de qiūtiān, dōu yào yǒu jǐ cì jiāoyóu.
Mỗi năm vào mùa thu, đều có vài chuyến đi dã ngoại.

最先去寻找秋天的人,大部分是青年学生,他们带来西山红叶已经红透的消息,于是去西山的路上都是去看红叶的人。
Zuì xiān qù xúnzhǎo qiūtiān de rén, dàbùfèn shì qīngnián xuéshēng, tāmen dàilái Xīshān hóngyè yǐjīng hóng tòu de xiāoxi, yúshì qù Xīshān de lù shàng dōu shì qù kàn hóngyè de rén.
Những người đầu tiên đi tìm mùa thu phần lớn là học sinh, sinh viên trẻ. Họ mang tin tức về rằng lá đỏ ở Tây Sơn đã chuyển sang sắc đỏ rực rỡ, thế là con đường đến Tây Sơn tràn ngập người đi ngắm lá đỏ.

带几片红叶回来,夹在书里,好像成了北京人的习惯。
Dài jǐ piàn hóngyè huílái, jiā zài shū lǐ, hǎoxiàng chéngle Běijīng rén de xíguàn.
Mang vài chiếc lá đỏ về, kẹp vào trong sách, dường như đã trở thành thói quen của người Bắc Kinh.

秋深了,冬天快到了,年轻人从床底下拿出休息了一年的冰鞋,把它擦得亮亮的,等着北海结冰。
Qiū shēn le, dōngtiān kuài dàole, niánqīng rén cóng chuáng dǐxià ná chū xiūxi le yì nián de bīngxié, bǎ tā cā de liàngliàng de, děngzhe Běihǎi jié bīng.
Mùa thu dần sâu, mùa đông sắp đến, những người trẻ tuổi lấy đôi giày trượt băng đã nghỉ ngơi suốt một năm từ dưới gầm giường ra, lau cho chúng sáng bóng, chờ đợi mặt hồ Bắc Hải đóng băng.

现在,应该正是北京的初冬,窗外也许正下着大雪,在温暖的屋子里吃着像梨一样甜的“心儿里美”,真可口。
Xiànzài, yīnggāi zhèng shì Běijīng de chū dōng, chuāngwài yěxǔ zhèng xiàzhe dàxuě, zài wēnnuǎn de wūzi lǐ chīzhe xiàng lí yíyàng tián de "xīn'er lǐ měi", zhēn kěkǒu.
Bây giờ, có lẽ đang là đầu đông ở Bắc Kinh, bên ngoài cửa sổ có thể đang có tuyết rơi, trong căn phòng ấm áp ăn một củ "tâm nhi mỹ" ngọt như lê, thật ngon miệng.

北京人管一种绿皮红心儿的萝卜叫“心儿里美”。
Běijīng rén guǎn yì zhǒng lǜ pí hóng xīn'er de luóbo jiào "xīn'er lǐ měi".
Người Bắc Kinh gọi một loại củ cải có vỏ xanh, ruột đỏ là "tâm nhi lý mỹ".

离开北京的那年,正是秋叶红了的时候,但是冰鞋还来不及拿出来,我就离开了她。
Líkāi Běijīng de nà nián, zhèng shì qiū yè hóngle de shíhòu, dànshì bīngxié hái láibují ná chūlái, wǒ jiù líkāile tā.
Năm rời Bắc Kinh, đúng vào lúc lá thu đã đỏ rực, nhưng tôi còn chưa kịp lấy giày trượt băng ra thì đã phải rời đi.

飞机在北京的上空绕了一圈,“协和医院”的绿瓦是我难忘的最后一眼,我的心在流泪,那是一种离开母亲的感觉。
Fēijī zài Běijīng de shàngkōng rào le yì quān, "Xiéhé Yīyuàn" de lǜ wǎ shì wǒ nánwàng de zuìhòu yì yǎn, wǒ de xīn zài liúlèi, nà shì yì zhǒng líkāi mǔqīn de gǎnjué.
Chiếc máy bay bay một vòng trên bầu trời Bắc Kinh, mái ngói xanh của "Bệnh viện Hiệp Hòa" là hình ảnh cuối cùng tôi không thể nào quên. Trái tim tôi rơi nước mắt, đó là một cảm giác như rời xa người mẹ của mình.

北京的四季

永远不能忘记的是北京,因为我在那里住得太久了,仿佛树生了根一样。从童年到少女又到妇人,一半的人生都是在那里度过的。我是多么熟悉那里的每个季节啊!

春天,人们纷纷来到西山,争着往山上爬,看“谁先爬上那个最高的山头。

春天先看牡丹花巴,接着就是芍药花,北京的春天多么美丽呀!然而,美丽的花儿不怕雨,却怕风,有时一夜大风,就把花儿吹得不成样子了。

几阵犬风就送走了春天,北京的春天又是多么短暂啊!

许多夏季的黄昏,喝一杯茉莉花茶,看一本心爱的书,听着蝉的叫声,享受安静最难忘的是夏季的暴雨,天空忽然黑下来,一阵大雨把天空和世界洗得干干净净,空气变得格外清新。我特别喜欢看雨后的红墙和绿瓦,喜欢雨后到北海公园划小船。到北海要经过文津街。文津街是北京城里我最喜爱的一条路,走过那里,就会想起历史。

北京的春天很短,可是秋天却很长。从树叶变黄,到水面结冰,都属于秋季。秋的第一个消息,就是水果上市。就拿水果的种类来说吧,那真是太多了:枣、葡萄、梨...都是秋季的水果。

西来顺”门前,假如摆出那两面大招牌面招牌上写着“涮”,一面招牌上写着“烤”,那就是告诉人们,秋天来了。从人来人往的西单向南,一路上都能闻到烤肉香。从那时起,一天不知要从外地运来多少只羊,才能满足北京人的馋嘴呢!

每年的秋天,都要有几次郊游。最先去寻找秋天的人,大部分是青年学生,他们带来西山红叶已经红透的消息,于是去西山的路上都是去看红叶的人。带几片红叶回来,夹在书里,好像成了北京人的习惯。

秋深了,冬天快到了,年轻人从床底下拿出休息了一年的冰鞋,把它擦得亮亮的,等着北海结冰。

现在,应该正是北京的初冬,窗外也许正下着大雪,在温暖的屋子里吃着像梨一样甜的“心儿里美”,真可口。北京人管一种绿皮红心儿的萝卜叫“心儿里美”,离开北京的那年,正是秋叶红了的时候,但是冰鞋还来不及拿出来,我就离开了她。飞机在北京的上空绕了一圈,协和医院”的绿瓦是我难忘的最后一眼,我的心在流泪,那是一种离开母亲的感觉。
 
Back
Top